25 March 2008

Nhà văn viễn tưởng Arthur C. Clarke

Không hiểu do đâu mà ở Đức, xứ sở của triết gia và thi nhân như người Đức thường tự nhận, các tác phẩm khoa học viễn tưởng xưa nay vẫn không có được chỗ đứng như ở các nước Anh, Mỹ. Cả những tác giả danh tiếng nhất cũng chỉ được các nhà xuất bản hạng ba, hạng tư chiếu cố. Và hầu như dòng văn học này không bao giờ được lưu tâm phê bình trên báo chí. Phần người đọc cũng không khác mấy, ai muốn được cho là "trí thức" thì chớ bao giờ dại dột tiết lộ là mình cũng đọc những loại sách này. (Điều này có phần giống như hội chứng "dốt toán" khá phổ biến trong giới gọi là có tên tuổi trong xã hội: tự nhận mình là dốt toán - tốt nhất là từ tận những ngày còn học mẫu giáo - mới có cơ được mọi người thêm phần quý trọng!)

Vậy mà những ngày này lại có một ngoại lệ xảy ra. Các báo Đức lớn nhỏ, trên ấn phẩm hay trên mạng, đều đồng loạt có bài tưởng niệm Arthur C. Clarke, một trong những nhà văn khoa học viễn tưởng cột trụ của thế giới, vừa qua đời ở tuổi 90.


Không thể nào nói khác đi là cả cuộc đời mình Sir Arthur C. Clarke (ông được Nữ hoàng Anh phong Hiệp sĩ năm 1998) đã miệt mài phóng tầm mắt ra không gian. Trong thế chiến thứ hai ông phục vụ trong Không quân hoàng gia Anh, là chuyên viên radar và đã góp phần phát triển hệ thống hướng dẫn không lưu GCA (mà sau này lần đầu được ứng dụng để điều hành thành công cầu không vận cho Berlin khi Đông Đức cô lập thành phố này 1948-49). Năm 1945 ông đưa ra đề nghị phóng vệ tinh lên quỹ đạo địa tĩnh (geostationary - có vị trí cố định tương đối với một điểm trên trái đất) để kết nối thông tin (Extra-Terrestrial Relays - Can Rocket Stations Give Worldwide Radio Coverage?, Wireless World, 1945):


Bài viết về vệ tinh của Clarke (1945) nay được lưu giữ tại Smithsonian National Air and Space Museum, Washington DC (bấm lên để mở lớn)


Hai mươi năm sau, khi vệ tinh địa tĩnh Intelsat I (Early Bird) được phóng lên với chức năng kết nối thông tin xuyên Đại Tây Dương, ý tưởng một thời bị coi là huyễn hoặc của Clarke đã trở thành hiện thực. Quỹ đạo địa tĩnh sau này được mang tên ông (Clarke Belt).

Cũng từ sau chiến tranh Clarke bắt đầu viết truyện khoa học viễn tưởng, ban đầu là các truyện ngắn đăng báo. Sau khi tốt nghiệp Toán và Vật lý ở King's College, London, ông làm việc cho Hội IEE (Institution of Electrical Engineers, nay là Institution of Engineering and Technology). Chính tại đây ông bắt đầu viết nhiều hơn, và trễ nhất là với tác phẩm Childhooďs End, Clarke bắt đầu trở thành một tác giả khoa học viễn tưởng danh tiếng. Nhưng có lẽ đại đa số quần chúng được biết đến tên tuổi ông qua bộ phim "2001: A Space Odyssey" (1968) mà ông đồng thực hiện với đạo diễn Stanley Kubrick. Trong phim này, ông đã vẽ ra viễn ảnh các trạm không gian, laptops, e-mails và một siêu máy tính có nhân tính (HAL, với ngụ ý là hóa thân của IBM, là ba mẫu tự đi liền trước tên hãng này). HAL vẫn là viễn tưởng, nhưng các thứ khác đã trở thành quen thuộc với chúng ta từ hàng chục năm nay.

Sinh thời, Clarke vẫn tự hào đã gây được sự đam mê cho các thế hệ nghiên cứu và thám hiểm không gian như không ít người trong ngành đã bày tỏ với ông. Thực vậy, các tác phẩm của Clarke có thể không phải là những tác phẩm văn chương lớn, nhưng những ý tưởng trong đó về khám phá vũ trụ, về viễn ảnh sống còn của nhân loại trong tương lai xa và gần đã có phần ảnh hưởng không nhỏ đến công cuộc nghiên cứu thế giới bao la bên ngoài trái đất.


Các "định luật" Clarke (trích trong “Profiles of the Future”, 1962):

1. Khi một khoa học gia nổi tiếng mà lớn tuổi cho rằng một chuyện gì đó là có thể xảy ra được thì ông ta hầu như chắc chắn đúng. Song khi vị này bảo rằng chuyện gì đó là không thể có được thì phần chắc là ông ta sai. (When a distinguished but elderly scientist states that something is possible, he is almost certainly right. When he states that something is impossible, he is very probably wrong.)

2. Cách duy nhất để xác định lằn ranh của cái có thể là mạo hiểm vượt qua lằn ranh đó để đi về hướng cái không thể. (The only way of discovering the limits of the possible is to venture a little way past them into the impossible.)

3. Bất kỳ công nghệ kỹ thuật nào phát triển đúng mức cũng đều không khác gì phép thần thông. (Any sufficiently advanced technology is indistinguishable from magic.)

21 March 2008

Tây Tạng ở München

Sáng thứ hai 17 tháng 3 ở München, bắt đầu một ngày mưa nhiều và dai dẳng. Khép lại một tuần có nhiều diễn biến xảy ra tại Tây Tạng, sư sãi tuần hành, dân chúng biểu tình, nhà cầm quyền Trung quốc đàn áp, xô xát xảy ra, nhiều người bị thương, một số thiệt mạng. Tình hình cuối tuần có vẻ leo thang, chính quyền Trung quốc cho nã súng vào đám đông người Tây Tạng tuần hành phản đối, nhiều tin tức trái ngược về số người bị thương và tử thương.



Ảnh: Getty Images /Johannes Simon

Sáng thứ hai 17 tháng 3 ở München, cảnh sát Đức rầm rộ kéo đến bảo vệ Lãnh sự quán Trung quốc. Có 26 người Tây Tạng lưu vong bị tạm giữ vì kéo đến phản đối trước cửa Lãnh sự Trung quốc. Một số trong họ đã vẽ lên tường Lãnh sự quán "Stop Killing in Tibet", "Save Tibet", một số khiêu khích và đe dọa nhân viên bên trong Lãnh sự quán, có xô xát nhỏ xảy ra.

Phát ngôn viên của Lãnh sự quán Trung quốc cho rằng đây là một "hành động bạo động có âm mưu, vi phạm luật pháp nguy hiểm, khởi xướng bởi bè lũ Đà Lai Lạt Ma". Bà Anja Scheer, phát ngôn viên của hội "Tibet Initiative München", một tổ chức quy tụ một số người Tây Tạng và bè bạn Đức tại München tranh đấu cho một Tây Tạng tự trị, ghi nhận cuộc biểu tình là tự phát, không tránh được đôi chút xô xát đáng tiếc, nhưng "hoàn toàn có thể hiểu được".

Được biết, cộng đồng người Tây Tạng sống tại München có tất cả gần 40 người. Chỉ riêng số người họ Nguyễn có ghi tên trong danh bạ điện thoại của München đã nhiều hơn số lượng này gấp 20 lần...

16 March 2008

Sao chép

Sao chép ở thời đại thông tin kỹ thuật số này có vẻ như chuyện dễ dàng và tự nhiên vô cùng, và với kết quả lúc nào cũng là 100%, tức là sao y bản chánh, không mảy may sai đi một ly, một nét. Chép lại một tấm hình trên mạng chỉ đơn thuần là lưu lại nguyên bản tấm hình đó ở một nơi khác, thông thường là nơi máy cá nhân của mình. Với một văn bản điện tử nào đó cũng vậy, đã sao chép được thì sẽ không thừa một ký hiệu, không thiếu một dấu đơn.

Vậy với các thực thể sống thì sao? Nơi mà chuyện sao chép các thông tin di truyền đã từ hàng tỷ năm nay không bao giờ ngừng nghỉ, và (hy vọng) sẽ còn tiếp tục dài lâu. Sự sao chép này là một tiến trình vật lý lẫn hóa học, và trong những điều kiện sinh học thực tế thì cả trên nguyên tắc cũng không tránh được sai lạc. Những sai lạc này là một trong những nguyên nhân chính gây ra đột biến trong di truyền, tạo điều kiện cho các loài tiến hóa, và dẫn đến - qua một thời gian rất lâu - những sự khác biệt chẳng hạn giữa một thiếu nữ vừa độ xuân thì và một chị gà mái tơ!


Nếu như bây giờ, giữa thế giới muôn màu hiện hữu - với đủ từ hàng ngàn chủng loại gà mái tơ và hàng vạn (?) dáng dấp thiếu nữ với mọi màu tóc, làn da - mà có một phép lạ nào đó cho phép sự sao chép thông tin di truyền đạt được mức độ lý tưởng thì sao? Nghĩa là ở mỗi một sinh vật, trong từng tế bào, sự sao chép thông tin di truyền từ đây trở thành hoàn hảo, không còn cho phép bất kỳ sai sót nào xảy ra nữa cả. Và từ đó (đại đa số) các đột biến di truyền cũng sẽ mất đi hẳn. Phép lạ này sẽ có ảnh hưởng gì đến cuộc sống và thiên nhiên trong thế giới chúng ta? Và có nên mong một ngày nào đó con người có thể tùy nghi mà điều khiển theo ý muốn mức độ hoàn hảo của sự sao chép thông tin di truyền không?

Thật ra, có rất nhiều khả năng là sau khi "tắt đi" đột biến di truyền thì cũng chẳng có chuyện gì trọng đại xảy ra cả, ít nhất là trong một thời gian rất lâu, hàng trăm triệu năm. Ừ, thì trên lý thuyết sự tiến hoá của muôn loài và con người có thể sẽ bị hạn chế một ít, có thể chậm lại đôi chút. Và "chậm" đi không hẳn có nghĩa là làm giảm đi cái muôn màu muôn vẻ của thế giới này đâu. Bởi vì mức độ biến thiên khổng lồ vốn đã có sẵn trong thiên nhiên hôm nay vẫn ngày càng được tiếp tục nhân lên trong sự kết hợp giới tính. Mỗi đứa con sinh ra vẫn còn có cơ hội nhận lấy tổ hợp di truyền mới từ cha và mẹ đó thôi. Mà trong cả sự sinh sản đơn tính cũng vậy, thiên nhiên vẫn có những cơ chế để lưu giữ hữu hiệu các mầm giống qua hàng chục ngàn đời (như thí nghiệm của William J. Beal từ 1879 chứng minh), góp phần phát huy hay ít nhất là bảo tồn sự đa dạng.

Ngược lại, phép lạ này lại giúp hạn chế bớt các mầm bịnh mau chóng kháng thuốc. Và các vi trùng gây cúm gia cầm chẳng hạn sẽ bớt biến hóa ra thiên hình vạn trạng để đe dọa các chị gà mái tơ - và không chừng cả những cô thiếu nữ vừa độ xuân thì nữa!

07 March 2008

Mật độ y sĩ trên thế giới

© EuroRSCG-Hội Y Sĩ Thế Giới

Hình trên là bản đồ biểu thị mật độ y sĩ ở các nước trên thế giới (bấm lên để phóng lớn). Bích chương này do EuroRSCG Amsterdam, Hòa Lan thực hiện cho Hội Y Sĩ Thế Giới và được treo ở các phòng mạch khắp Hòa Lan.

Thông điệp của những con số này (tỉ lệ bao nhiêu người thì có được một y sĩ) muốn nhắc nhở bịnh nhân Hòa Lan là họ đang sống trong một quốc gia được ưu đãi rất nhiều về mặt y tế và có thể góp phần giúp đỡ cải thiện tình trạng này ở nhiều nơi khác trên thế giới.

Không chỉ Hòa Lan mà ở các nơi khác được cung cấp đầy đủ về y tế người ta cũng nên có được ý thức tương tự.