25 May 2008

Lá thư Tây Hồ

Thư Phan Châu Trinh gửi Nguyễn Tất Thành

Marseille ngày 18-12-1922

Tôi với anh mấy năm ròng cùng sống nơi đất khách quê người, nhưng mà lòng bọn mình chẳng khi nào quên cái cảnh tưởng bên nhà. Chính phủ bảo hộ thì nói rằng: cái việc dẹp loạn là để an dân, làm mấy con đường hỏa xa, mấy cái học đường, mấy cái nhà thương là để khai hóa xứ An Nam mình. Cái công lao ấy thì báo chương Ba Lê[1] nhan nhản đăng lên, còn cái sưu cao thuế nặng, cái tham quan lại nhũng, cái sĩ khí dân tình bị chém giết, bị bỏ tù, bị đày ải kia thời họ im phăng phắc. Bởi cái cảnh thất quốc vong gia kia, lòng dân đồ thán, nên cảnh giang hồ chúng mình làm sao mà nguôi dạ được, hồn Tổ quốc nặng trĩu trên vai, xót vì quốc dân đồng bào đương rên xiết bởi cường quyền áp chế.

Thực trạng dân tình thế thái bên nhà, bọn mình biết rõ, bấy lâu nay bọn mình ở bên này có đăng báo chương, hô hào các hạng người Pháp có lương tâm ngõ hầu giúp người An Nam đánh đổ cường quyền áp chế, nhưng kết quả chẳng được là bao. Khát vọng tự do, bình đẳng, bác ái mà ông Mạnh Đức Tư Cưu[2], ông Lư Thoa[3] khởi xướng chẳng nhỏ được giọt nào trên đất An Nam mình. Xem thế thì gẫm ngay được rằng: một chủng tộc muốn như chủng tộc văn minh chỉ có tự lập tự cường. Nhưng khốn nỗi nước An Nam ta từ ngày quan quân nước Pháp đem binh thuyền đến mà chinh phục mãi tới ngày nay, sĩ khí dân tình khởi sự chống lại chính phủ bảo hộ tiếp diễn liên miên, hết cuộc này, đến cuộc khác, rốt cuộc đâu hoàn đó, chẳng nhúc nhích được chút nào. Ngày nay, việc khởi sự lần hồi giảm đi bởi cái dã tâm của hạng người dạ thú, của kẻ đầu trâu mặt ngựa, bởi thiếu người hướng đạo.

Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan[4] đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi. Còn tôi lại thời không thích cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội[5] của anh, và cả cái dụng lý thuyết thâu nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan là tôi là hạng hủ nho thủ cựu. Cái điều tôi đã thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này. Cái đó tôi đã thua anh xa lắm, đừng nói gì đọ với anh Phan. Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế, tôi nói thế chẳng hề dám ví anh là kẻ tử mã lục thạch[6]. Thực tình từ trước đến nay tôi chẳng khinh thị anh, mà tôi còn phục anh nữa là khác. Tôi thực tình cứ sao nói nấy, không ton hót anh tí nào.

Mấy việc nói qua trên kia để bọn mình ôn cố một chút, còn lần này tôi phải viết cái thư này cho anh là tôi có cái hy vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự. Phàm thử muốn thức tỉnh quốc dân, đồng bào đánh đổ cường quyền áp chế, thời từ xưa đến nay, từ Á sang Âu, chưa có một người nào làm cái việc như anh, anh lấy cái lẽ ở nước mình lưới giăng tứ bề, mà về nước ắt là sa cơ, gia dĩ dân tình sĩ khí cơ hồ tan tác, bởi cái chính sách cường quyền nên sự hấp thụ lý thuyết kém cỏi, bởi thế mà anh cứ khư khư cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội, cứ như cái phương pháp ấy, thời anh viết bài đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc dân đồng bào bên nhà đem tinh thần nghị lực ra làm việc nước. Tôi coi lối ấy phí công mà thôi. Bởi vì, quốc dân đồng bào mấy ai biết chữ Tây, chữ quốc ngữ, cầm tờ báo mà đọc nổi. Theo ý tôi thì mình học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, thâu tóm được chữ nghĩa, có chí mưu cầu quyền lợi cho quốc dân, đồng bào thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào, đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công. Anh không nghe lời tôi nói, anh ở hoài bên này, cứ cái lối đó thì tài năng của anh chẳng khác gì công dã tràng. Bởi cái lẽ đó mà tôi khuyên anh thu xếp mà về, đem tài năng của mình khích động nhân tâm, hô hào đồng bào ba kỳ đồng tâm hiệp lực để mà đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công.

Tôi biết anh hấp thu được cái chủ nghĩa của ông Mã Khắc Tư[7], ông Lý Ninh[8], nên tôi cũng đem chuyện hai ông ấy mà giảng dẫn cho anh rõ. Ông Mã vốn sinh trưởng trên đất Đức Ý Chi[9], ông bị chính phủ tầm nã vì cái tội cách mệnh, đành lánh nạn sang nước Anh Cát Lợi[10], sau ông lại lội về Đức Ý Chi mà làm việc, vả lại còn nói chuyện cách mệnh dân quyền của cả thế gian, là cái rốn chính ở ngay trên đất Đức Ý Chi, nên ông ấy về để mà làm việc.

Lý cũng bị cái chính phủ cường quyền Nga La Tư[11] truy nã, ông phải lánh nạn sang cái xứ Phát La Tây[12], Đức Ý Chi và Lang Sa[13], rồi ông trở lại về nước hô hào dân thợ, dân cày, lính tráng đoàn kết mới làm nổi cách mạng mà dân Âu Mỹ đều thần phục.

Cứ xem hai ông Mã, Lý mà anh tôn thờ chủ nghĩa, có ông nào dùng cái lối nương náu đất người mà làm quốc sự cho mình như anh đâu? Bởi vậy, quả như anh tôn thờ lý thuyết hai ông ấy thì anh nghe lời tôi mà về quảng cáo cho quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết, có phải là cái phương pháp hay biết chừng nào.

Lại còn có điều ngộ bất trắc sa cơ, đương nhiên là sự phòng xa thời ắt là lợi hơn thiển cận, song lẽ từ xưa đến nay biết bao nhân thân, chí sĩ nước mình hoặc khởi sự hay ôn hòa đương đầu với cường quyền áp chế, mấy ai khỏi vào lao lung tù tội, đày ải chém giết. Ông Đề Thám bị bêu đầu giữa chợ, ông Phan Đình Phùng bị đào mã ném xuống sông, ông Hàm Nghi, Duy Tân, Thủ Khoa Huân bị đày biệt xứ, và nhiều không kể xiết sự đầu rơi máu chảy… Ngại vì sa cơ thì e rằng bỏ mất cái tài của mình, cơ hội chảy qua như dòng nước. Bởi thế cho nên phương pháp qui sào giác thế[14] mà anh làm được thì may mắn cho quốc dân, đồng bào ta biết dường nào. Giả như không làm được như thế, thời tài năng của anh ắt là mai một.

Anh cứ xem ông Phan Bội Châu hồi trước chẳng nghe lời tôi, mang người mang của đến cái đất Phù Tang[15], cầu cứu nghĩa đồng văn đồng chủng, chạy Đông chạy Tây, di ngoại đột nội[16], rốt cuộc chỉ làm được mấy lần khởi sự. Vả lại cái chủ trương của ông Phan mới xem qua thì hay lắm, song gẫm cho kỹ càng thì chẳng khác gì phương pháp của họ Lê cầu Thanh diệt Trịnh, họ Nguyễn cầu viện Pháp đình đánh Tây Sơn. Cổ lai thế sự, còn rành rành ra đó, ấy thế mà ông Phan cứ tôn thờ cái bài vị đồng văn, đồng chủng. Thảng như cái phương pháp của ông Phan mà thành công, thì quốc dân đồng bào vẫn nguyên là cái lưng con ngựa, chỉ thay người cỡi mà thôi. Hồi ông ấy mới mưu đồ quốc sự, tôi có nói với ông là, ông hãy ở nhà cùng với nhân thân chí sĩ ba kỳ mà thức tỉnh nhân tâm, hợp quần hợp xã, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, ai nấy thấu rõ ngọn nguồn, đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền, Đông Tây sao mà chẳng vỗ nên bộp? Ấy thế mà ông Phan chẳng thèm nghe, mà mãi tới nay ông vẫn còn cứ cho phương pháp của ông là hay. Tôi biết anh cũng chẳng tán đồng cái phương pháp của ông Phan, vả lại tôi cũng còn tin rằng không sớm thì chầy, anh cũng lấy cái phương pháp khẩu xướng đối nhân, dụng nội triệt ngoại[17] cùng với sĩ phu dân chúng ba kỳ mà mưu đồ đại sự.

Từ xưa đến nay, tôi vẫn cho phương pháp của tôi có nhiều sự hay hơn nhiều sự dở, vì rằng người nước mình trên có chính phủ bảo hộ trông, dưới là một bầy tham quan lại nhũng, học thức trong đám dân chúng kém cỏi, thì còn gì tốt lành bằng cái tôi dựa vào lý thuyết dân quyền để mà cổ động sĩ khí dân tình, tôi thực hành cái phương pháp ấy thì tôi làm cái lối khẩu thuyết vô bằng[18] mà hô hào quốc dân đồng bào, đồng tâm hiệp lực, kết đoàn hợp xã, dân tình thức tỉnh, kháng thuế cự sưu, tố giác tham quan lại nhũng, lại bất hợp tác từ cái này đến cái nọ, dân chúng Đông Tây vỗ nên bộp mà đòi lại lợi quyền.

Cái lối khẩu thuyết vô bằng, mình có thể phơi bày hết điều hơn lẽ thiệt, ngộ ai có phản nghịch tố giác, cũng chẳng có chứng cớ minh bạch mà làm tù, làm tội nặng mình được. Đương nhiên, cái lối đó cũng khó bề kéo dài, họ ắt vịn cớ này, cớ nọ để làm tội làm tình, thế nhưng cái lúc đó vị tất không có người trực tiếp cái lối của mình hay sao? Cứ như cái hồi cự sưu có anh Châu Thơ Đồng[19], há chẳng dùng lối ấy mà hô hào dân chúng cho đến khi không còn nói ra tiếng rồi chết, ấy là sự thật đã qua. Còn ngày nay, cũng làm cái lối ấy, chẳng may bị sa cơ, thể tất lại chẳng có người nối tiếp mình thức tỉnh nhân quần, bằng cái lối đó chắc là cuồn cuộn dâng lên, rồi một ngày kia khác nào như ngọn thủy triều lôi cuốn mất cường quyền áp chế. Bởi vậy, anh coi cái lối của tôi mà tốt, thì anh cứ thể nghiệm. Anh mà làm theo tôi sẽ thâm căn cố đế trong đám dân tình chí sĩ… chớ mà anh khư khư cái lối của anh, cứ ở bên này viết báo chương, hô hào lý thuyết, thì tôi e rằng công dày mưu cao của anh cứ lần hồi mà mai một.

Tôi là một người có án tích, lại cư trú bên này, chân tay bị bó rọ, thế mà tôi cứ có nguyện vọng sẽ xin chính phủ và bộ Pháp quốc hải ngoại cho tôi về Tàu làm cái nghề viết báo chữ Hán mà kiếm sống rồi may ra có cơ hội tôi lại về. Một khi mà tôi đặt chân lên quê hương xứ sở, tôi nguyện đem hết nghị lực bình sanh mà thức tỉnh dân khí ba kỳ đồng tâm hiệp lực đạp đổ cường quyền áp chế…

Anh Nguyễn, tôi tường tâm với anh, đã rõ nguồn cơn. Bây giờ, thân tôi tợ chim lồng cá chậu. Vả lại, cây già thì gió dễ lay, người già thì trí lẫn, cảnh tôi như hoa sắp tàn, hiềm vì quốc phá gia vong, mà hơi tàn cũng phải gào cho hả dạ, may ra có tỉnh giấc hôn mê. Còn anh như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông, nhưng mà anh chẳng nghe lời tôi, anh cứ quanh quẩn bên này, thời làm sao mà tài năng của anh thi thố được? Bởi vậy, tôi thành tâm khuyên anh, mong mỏi anh thay đổi cái phương pháp cũ kỹ đi, để mà mưu đồ đại sự. Tôi cầu chúc anh thành công và hy vọng thấy mặt nhau ở quê hương xứ sở.

Người bạn kính thư
Phan Châu Trinh





Đám tang Phan Châu Trinh ngày 04/04/1926 được nhân dân cả ba kỳ tham
dự rất đông đảo. Riêng ở Sài Gòn có hơn 100.000 người đi theo linh cửu
(dân số Sài Gòn-Chợ Lớn lúc bấy giờ là 345.000 người). Trong báo cáo cho
Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc viết: "...trong lịch sử người An Nam
chưa hề được chứng kiến một sự kiện to lớn như vậy bao giờ"



    Chú thích:

    1. Ba Lê tức Paris

    2. Mạnh Đức Tư Cưu tức Montesquieu (1689-1755), nhà văn và triết gia Pháp với các tư tưởng sâu sắc về lịch sử quan và các thể chế chính trị

    3. Lư Thoa tức Rousseau (1712-1778), nhà văn và triết gia Pháp với các lý thuyết chính trị và giáo dục mở đường cho Cách mạng Pháp và ảnh hưởng sâu đậm đến triết học chính trị ở cả thế kỷ 19 và 20

    4. Phan ở đây là Phan Văn Trường (1875-1933), tiến sĩ luật học và nhà báo, là một trong những khoa bảng người Việt đầu tiên tại Pháp, tích cực ủng hộ và hoạt động cùng các chí sĩ Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế Truyền (nhóm tác giả vận động chống chế độ thực dân ở Đông dương với bút hiệu Nguyễn Ái Quốc mà sau có Nguyễn Tất Thành tham gia)

    5. ngọa ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội: ngồi ngoài gọi người giỏi, đợi thời cơ mà về bất ngờ

    6. tử mã lục thạch: theo Hoàng Xuân Hãn thì theo Hán văn thuần túy câu này không có nghĩa, nếu dịch đùa (từng chữ) thì nghĩa lóng sẽ là "con ngựa thích đá" hoặc "ngựa con thích đá". Có thể đây là thành ngữ “cân tử mã sáu hộc”, nghĩa là cân non, ý nói tính còn non nớt (theo Huình Tịnh Của - Đại Nam Quấc âm tự vị, Sài Gòn 1898)

    7. Mã Khắc Tư tức Marx

    8. Lý Ninh tức Lenin (Ленін)

    9. Đức Ý Chi tức nước Đức

    10. Anh Cát Lợi tức nước Anh

    11. Nga La Tư tức nước Nga

    12. Phát La Tây có thể là Phần Lan?

    13. Lang Sa (hay Pháp Lang Sa, Phú Lang Sa) là nước Pháp

    14. qui sào giác thế: trở về quê hương để thức tỉnh mọi người

    15. Phù Tang tức nước Nhật

    16. di ngoại đột nội: ra rồi chợt vào

    17. khẩu xướng đối nhân, dụng nội triệt ngoại: nói rõ với người, lấy trong trừ ngoài

    18. khẩu thuyết vô bằng (hay khẩu thiệt vô bằng): lời nói bay đi, không còn bằng cớ

    19. Châu Thơ Đồng, tên thật Châu Thượng Văn (1856-1908), tham gia phong trào Duy Tân của Phan Bội Châu ở Hội An. Ông bị Pháp bắt trong vụ đấu tranh kháng thuế tại Trung Kỳ, tự nhận chỉ một mình khởi xướng và tuyệt thực chết tại nhà lao Huế. Huỳnh Thúc Kháng ghi lại lời nói khảng khái của ông lúc gặp gỡ lần cuối ở nhà lao Hội An: "Tôi làm cái dễ, còn anh em gắng gánh lấy sự khó".

    Tham khảo:

    * Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp (1911-1925), Nxb Đông Nam Á, Paris, 1983, và Nxb Văn Nghệ TP.HCM & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, TP.HCM, 2000

    * Phan Châu Trinh – Toàn tập (I, II và III), Nxb Đà Nẵng, 2005

No comments: